Công văn 3912/CT-CS năm 2025 về chính sách thuế do Cục Thuế ban hành
Số hiệu | 3912/CT-CS |
Ngày ban hành | 18/09/2025 |
Ngày có hiệu lực | 18/09/2025 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Cục Thuế |
Người ký | Phạm Thị Minh Hiền |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3912/CT-CS |
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 2025 |
Kính gửi: Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.
Cục Thuế nhận được phản ánh của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (thông qua thông tin từ Bộ Tư pháp) về chính sách thuế. Về kiến nghị của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Cục Thuế có ý kiến như sau:
Theo hướng dẫn tại Công văn số 1605/GSQL-GQ1 ngày 02/12/2014 của Cục Giám sát quản lý về Hải quan: "Ngày hoàn tất thủ tục hải quan trên tờ khai hải quan được hiểu là ngày thông quan trên tờ khai hải quan", không phải ngày hàng qua khu vực giám sát hải quan.
Căn cứ khoản 2 Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định:
“Điều 16. Điều kiện khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu
2. Tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu đã làm xong thủ tục hải quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu...”
Căn cứ khoản 7 Điều 3 Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ Tài chính sửa đổi khoản 4 Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính: “...Hóa đơn thương mại. Ngày xác định doanh thu xuất khẩu để tính thuế là ngày xác nhận hoàn tất thủ tục hải quan trên tờ khai hải quan”.
Căn cứ khoản 33 Điều 1 Thông tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20/04/2018 (sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 53 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/03/2015) của Bộ Tài chính:
“33. Khoản 1 và khoản 3 Điều 53 được sửa đổi, bổ sung như sau:
1. Đối với hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu đường biển, đường hàng không; đường sắt, đường thủy nội địa, cảng chuyển tải, khu chuyển tải; hàng hóa cung ứng cho tàu biển, tàu bay xuất cảnh; hàng hóa xuất khẩu được vận chuyển cùng với người xuất cảnh qua cửa khẩu hàng không; hàng hóa xuất khẩu đưa vào kho CFS; hàng hóa xuất khẩu đưa vào ICD là tờ khai hải quan xuất khẩu đã được xác nhận thông quan và được xác nhận hàng đã qua khu vực giám sát trên Hệ thống khi hàng hóa được xếp lên phương tiện vận tải xuất cảnh. Riêng đối với hàng hóa xuất khẩu đưa vào kho ngoại quan là tờ khai hải quan xuất khẩu đã được xác nhận thông quan và được xác nhận hàng đã đưa vào kho ngoại quan trên Hệ thống.”
Trên thực tế, đối với các doanh nghiệp thuộc luồng xanh, khi mở tờ khai hải quan, ngày mở tờ khai hải quan đồng thời là ngày thông quan trên tờ khai hải quan. Tuy nhiên, tại thời điểm mở tờ khai hải quan, hàng hóa chứa được tập kết về khu vực giám sát hải quan. Ngày hàng qua khu vực giám sát hải quan thường sau ngày thông quan từ 02 -15 ngày. Do đó có sự chênh lệch về thời điểm thông quan và thời điểm hoàn thành giám sát hải quan.
Đề nghị thống nhất xác định thời điểm xuất hóa đơn, xác định doanh thu xuất khẩu là ngày hàng hóa qua khu vực giám sát Hải quan theo quy định của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Cục Thuế xin trả lời như sau:
Tại điểm a khoản 6 Điều 1 Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 (sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020) của Chính phủ quy định về thời điểm lập hóa đơn:
“6. Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2, điểm a, điểm e, điểm l, điểm m, điểm n khoản 4 Điều 9 và bổ sung điểm p, điểm q, điểm r vào khoản 4 Điều 9 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 như sau:
“1. Thời điểm lập hóa đơn đối với bán hàng hóa (bao gồm cả bán, chuyển nhượng tài sản công và bán hàng dự trữ quốc gia) là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
Đối với xuất khẩu hàng hóa (bao gồm cả gia công xuất khẩu), thời điểm lập hóa đơn thương mại điện tử, hóa đơn giá trị gia tăng điện tử hoặc hóa đơn bán hàng điện tử do người bản tự xác định nhưng chậm nhất không quá ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày hàng hóa được thông quan theo quy định pháp luật về hải quan....”
Tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 quy định:
“Điều 15. Thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu
1. Đối với hàng hóa xuất khẩu, thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng do người bán tự xác định nhưng chậm nhất không quá ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày hàng hóa được thông quan theo quy định của pháp luật về hải quan.”
Căn cứ hướng dẫn tại điểm a khoản 2 và điểm d khoản 3 Điều 10 Thông tư số 69/2025/TT-BTC quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.
Căn cứ các quy định trên, thời điểm lập hóa đơn đối với hàng hóa xuất khẩu và thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 70/2025/NĐ-CP và Nghị định số 181/2025/NĐ-CP nêu trên. Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 và Điều 3 Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ Tài chính đã hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025.
Đề nghị Tập đoàn nghiên cứu các quy định trên để thực hiện theo đúng quy định.
2. Nội dung kiến nghị liên quan đến khoản 3 Điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên:
Tại điểm b khoản 3 Điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên quy định về chi phí trừ lùi trong việc xác định thuế tài nguyên như sau:
“b) Trường hợp bán ra sản phẩm công nghiệp thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3912/CT-CS |
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 2025 |
Kính gửi: Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.
Cục Thuế nhận được phản ánh của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (thông qua thông tin từ Bộ Tư pháp) về chính sách thuế. Về kiến nghị của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Cục Thuế có ý kiến như sau:
Theo hướng dẫn tại Công văn số 1605/GSQL-GQ1 ngày 02/12/2014 của Cục Giám sát quản lý về Hải quan: "Ngày hoàn tất thủ tục hải quan trên tờ khai hải quan được hiểu là ngày thông quan trên tờ khai hải quan", không phải ngày hàng qua khu vực giám sát hải quan.
Căn cứ khoản 2 Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định:
“Điều 16. Điều kiện khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu
2. Tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu đã làm xong thủ tục hải quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu...”
Căn cứ khoản 7 Điều 3 Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ Tài chính sửa đổi khoản 4 Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính: “...Hóa đơn thương mại. Ngày xác định doanh thu xuất khẩu để tính thuế là ngày xác nhận hoàn tất thủ tục hải quan trên tờ khai hải quan”.
Căn cứ khoản 33 Điều 1 Thông tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20/04/2018 (sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 53 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/03/2015) của Bộ Tài chính:
“33. Khoản 1 và khoản 3 Điều 53 được sửa đổi, bổ sung như sau:
1. Đối với hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu đường biển, đường hàng không; đường sắt, đường thủy nội địa, cảng chuyển tải, khu chuyển tải; hàng hóa cung ứng cho tàu biển, tàu bay xuất cảnh; hàng hóa xuất khẩu được vận chuyển cùng với người xuất cảnh qua cửa khẩu hàng không; hàng hóa xuất khẩu đưa vào kho CFS; hàng hóa xuất khẩu đưa vào ICD là tờ khai hải quan xuất khẩu đã được xác nhận thông quan và được xác nhận hàng đã qua khu vực giám sát trên Hệ thống khi hàng hóa được xếp lên phương tiện vận tải xuất cảnh. Riêng đối với hàng hóa xuất khẩu đưa vào kho ngoại quan là tờ khai hải quan xuất khẩu đã được xác nhận thông quan và được xác nhận hàng đã đưa vào kho ngoại quan trên Hệ thống.”
Trên thực tế, đối với các doanh nghiệp thuộc luồng xanh, khi mở tờ khai hải quan, ngày mở tờ khai hải quan đồng thời là ngày thông quan trên tờ khai hải quan. Tuy nhiên, tại thời điểm mở tờ khai hải quan, hàng hóa chứa được tập kết về khu vực giám sát hải quan. Ngày hàng qua khu vực giám sát hải quan thường sau ngày thông quan từ 02 -15 ngày. Do đó có sự chênh lệch về thời điểm thông quan và thời điểm hoàn thành giám sát hải quan.
Đề nghị thống nhất xác định thời điểm xuất hóa đơn, xác định doanh thu xuất khẩu là ngày hàng hóa qua khu vực giám sát Hải quan theo quy định của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Cục Thuế xin trả lời như sau:
Tại điểm a khoản 6 Điều 1 Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 (sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020) của Chính phủ quy định về thời điểm lập hóa đơn:
“6. Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2, điểm a, điểm e, điểm l, điểm m, điểm n khoản 4 Điều 9 và bổ sung điểm p, điểm q, điểm r vào khoản 4 Điều 9 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 như sau:
“1. Thời điểm lập hóa đơn đối với bán hàng hóa (bao gồm cả bán, chuyển nhượng tài sản công và bán hàng dự trữ quốc gia) là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
Đối với xuất khẩu hàng hóa (bao gồm cả gia công xuất khẩu), thời điểm lập hóa đơn thương mại điện tử, hóa đơn giá trị gia tăng điện tử hoặc hóa đơn bán hàng điện tử do người bản tự xác định nhưng chậm nhất không quá ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày hàng hóa được thông quan theo quy định pháp luật về hải quan....”
Tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 quy định:
“Điều 15. Thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu
1. Đối với hàng hóa xuất khẩu, thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng do người bán tự xác định nhưng chậm nhất không quá ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày hàng hóa được thông quan theo quy định của pháp luật về hải quan.”
Căn cứ hướng dẫn tại điểm a khoản 2 và điểm d khoản 3 Điều 10 Thông tư số 69/2025/TT-BTC quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.
Căn cứ các quy định trên, thời điểm lập hóa đơn đối với hàng hóa xuất khẩu và thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 70/2025/NĐ-CP và Nghị định số 181/2025/NĐ-CP nêu trên. Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 và Điều 3 Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 của Bộ Tài chính đã hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025.
Đề nghị Tập đoàn nghiên cứu các quy định trên để thực hiện theo đúng quy định.
2. Nội dung kiến nghị liên quan đến khoản 3 Điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên:
Tại điểm b khoản 3 Điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên quy định về chi phí trừ lùi trong việc xác định thuế tài nguyên như sau:
“b) Trường hợp bán ra sản phẩm công nghiệp thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp được trừ khi xác định giá tính thuế căn cứ công nghệ chế biến của doanh nghiệp theo Dự án đã được phê duyệt nhưng không bao gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng”
Tại Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, bổ sung một số điều của các nghị định về thuế quy định về các chi phí trừ lùi trong việc tính thuế tài nguyên như sau:
“4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể giá tính thuế tài nguyên khai thác quy định tại Khoản 2, Điểm b Khoản 3 Điều này. Trường hợp tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu) thì giá tính thuế tài nguyên khai thác được xác định căn cứ vào trị giá hải quan của sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến xuất khẩu hoặc giá bán sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến trừ thuế xuất khẩu (nếu có) và các chi phí có liên quan từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu xuất khẩu hoặc từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu bán tại thị trường trong nước.”
Đề xuất thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP của Chính phủ là chi phí có liên quan từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu xuất khẩu hoặc từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu bán ra tại thị trường trong nước (bao gồm cả chi phí lãi vay, bán hàng và quản lý doanh nghiệp,...)
Cục Thuế xin trả lời như sau:
Tại Điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên:
“Điều 6. Giá tính thuế tài nguyên
Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định; Trường hợp giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định thì tính thuế tài nguyên theo giá do UBND cấp tỉnh quy định.
…
3. Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra (bán trong nước hoặc xuất khẩu)
a) Trường hợp bán ra sản phẩm tài nguyên thì giá tính thuế là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên (trường hợp bán trong nước) tương ứng với sản lượng tài nguyên bản ra ghi trên chứng từ bán hàng hoặc trị giá hải quan của sản phẩm tài nguyên xuất khẩu (trường hợp xuất khẩu) không bao gồm thuế xuất khẩu tương ứng với sản lượng tài nguyên xuất khẩu ghi trên chứng từ xuất khẩu nhưng không thấp hơn giá tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định.
Trị giá hải quan của sản phẩm tài nguyên xuất khẩu thực hiện theo quy định về trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu tại Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành và sửa đổi, bổ sung (nếu có).
b) Trường hợp bán ra sản phẩm công nghiệp thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp được trừ khi xác định giá tính thuế căn cứ công nghệ chế biến của doanh nghiệp theo Dự án đã được phê duyệt nhưng không bao gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng.
c) Trường hợp giá tính thuế mà NNT xác định thấp hơn giá tính thuế tại Bảng giá do UBND cấp tỉnh quy định thì áp dụng giá tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định; Trường hợp tại Bảng giá của UBND cấp tỉnh quy định chưa có giá đối với loại sản phẩm này thì cơ quan thuế phối hợp với cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra, ấn định theo pháp luật về quản lý thuế.
d) Trường hợp tài nguyên khai thác đưa vào chế biến, sản xuất sản phẩm và thu được sản phẩm tài nguyên đồng hành thì áp dụng giá tính thuế đơn vị tài nguyên theo từng trường hợp cụ thể nêu tại Điều này.”
Đề nghị Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam căn cứ văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên và trên cơ sở thực tế tài nguyên khai thác, chế biến để thực hiện theo quy định.
3. Nội dung kiến nghị liên quan đến khoản 4 Điều 1 Nghị định 70/2025/NĐ-CP ngày 20/03/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 quy định về hóa đơn, chứng từ:
Khoản 4 Điều 1 Nghị định 70/2025/NĐ-CP ngày 20/03/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 quy định về hóa đơn, chứng từ
“4. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 như sau:
“2. Đối với tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan
a) Thực hiện hành vi gian dối như sử dụng hóa đơn không hợp pháp, sử dụng không hợp pháp hóa đơn; làm giả hóa đơn, chứng từ để thực hiện hành vi trái pháp luật;”
Hiện nay, tình trạng mua/bán/làm giả hóa đơn vẫn tồn tại, kể cả với hóa đơn điện tử, trong khi nghiệp vụ kiểm tra tính pháp lý của hóa đơn đối với doanh nghiệp có những rủi ro về pháp lý khi bị thanh kiểm tra, bao gồm: không được khấu trừ thuế GTGT, bị phạt hành chính, bị truy thu thuế, ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp, và thậm chí là rủi ro hình sự nếu sử dụng hóa đơn không hợp pháp. Việc rà soát thông tin của Nhà cung cấp được các Cơ quan chức năng thực hiện thường xuyên, liên tục.
Tuy nhiên, tình trạng của nhà cung cấp từng thời điểm lại khác nhau, đơn cử như tại thời điểm kê khai khấu trừ thuế nhà cung cấp đang trong trạng thái hoạt động bình thường, tuy nhiên sau thời điểm kê khai, tình trạng doanh nghiệp cập nhật mới trạng thái hoạt động thuộc trường hợp có các rủi ro về thuế, dẫn tới doanh nghiệp không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hóa đơn do Nhà cung cấp đó phát hành, thậm chí có những chế tài xử phạt đối với doanh nghiệp khi có các Đoàn thanh, kiểm tra.
Như vậy, rủi ro về hóa đơn vượt ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp là bên chịu các chế tài xử phạt về việc sử dụng hóa đơn không đúng quy định.
Đề xuất không áp dụng các hình thức xử lý, xử phạt đối với các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn, mà chỉ nên áp dụng chế tài xử lý, xử phạt đối với các nhà cung cấp trực tiếp phát hành hóa đơn sai quy định của pháp luật.
Cục Thuế xin trả lời như sau:
Theo quy định tại Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 ngày 26/11/2024 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01/7/2025):
- Tại khoản 4 Điều 13 quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong khấu trừ, hoàn thuế: “...4. Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp, sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ theo quy định của Chính phủ.”
- Tại điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 14 quy định khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:
“2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định như sau:
a) Có hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 4 của Luật này. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài;
…
3. Cơ sở kinh doanh không đáp ứng quy định về khấu trừ thuế tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và các hóa đơn, chứng từ được lập từ các hành vi bị nghiêm cấm tại Luật này thì không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng.”
Tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 70/2025/NĐ-CP ngày 20/03/2025 (sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020) của Chính phủ quy định về hành vi bị cấm trong lĩnh vực hóa đơn, chứng từ:
“4. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 như sau:
“2. Đối với tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan
a) Thực hiện hành vi gian dối như sử dụng hóa đơn không hợp pháp, sử dụng không hợp pháp hóa đơn; làm giả hóa đơn, chứng từ để thực hiện hành vi trái pháp luật;”
Tại khoản 9 Điều 3 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về giải thích từ ngữ như sau:
“9. Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp là việc sử dụng hóa đơn, chứng từ giả; sử dụng hóa đơn, chứng từ chưa có giá trị sử dụng, hết giá trị sử dụng; sử dụng hóa đơn bị ngừng sử dụng trong thời gian bị cưỡng chế bằng biện pháp ngừng sử dụng hóa đơn, trừ trường hợp được phép sử dụng theo thông báo của cơ quan thuế; sử dụng hóa đơn điện tử không đăng ký sử dụng với cơ quan thuế; sử dụng hóa đơn điện tử chưa có mã của cơ quan thuế đối với trường hợp sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế; sử dụng hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ có ngày lập trên hóa đơn từ ngày cơ quan thuế xác định bên bán không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; sử dụng hóa đơn, chứng từ mua hàng hóa, dịch vụ có ngày lập trên hóa đơn, chứng từ trước ngày xác định bên lập hóa đơn, chứng từ không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chưa có thông báo của cơ quan thuế về việc bên lập hóa đơn, chứng từ không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền nhưng cơ quan thuế hoặc cơ quan công an hoặc các cơ quan chức năng khác đã có kết luận đó là hóa đơn, chứng từ không hợp pháp.
Sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ là việc sử dụng: Hóa đơn, chứng từ không ghi đầy đủ các nội dung bắt buộc theo quy định; hóa đơn tẩy xóa, sửa chữa không đúng quy định; sử dụng hóa đơn, chứng từ không (hóa đơn, chứng từ đã ghi các chỉ tiêu, nội dung nghiệp vụ kinh tế nhưng việc mua bán hàng hóa, dịch vụ không có thật một phần hoặc toàn bộ); sử dụng hóa đơn phản ánh không đúng giá trị thực tế phát sinh hoặc lập hóa đơn khống, lập hóa đơn giả; sử dụng hóa đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hóa, dịch vụ hoặc sai lệch các tiêu thức bắt buộc giữa các liên của hóa đơn; sử dụng hóa đơn để quay vòng khi vận chuyển hàng hóa trong khâu lưu thông hoặc dừng hóa đơn của hàng hóa, dịch vụ này để chứng minh cho hàng hóa, dịch vụ khác; sử dụng hóa đơn, chứng từ của tổ chức, cá nhân khác (trừ hóa đơn của cơ quan thuế và trường hợp được ủy nhiệm lập hóa đơn) để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc hàng hóa, dịch vụ bán ra; sử dụng hóa đơn, chứng từ mà cơ quan thuế hoặc cơ quan công an hoặc các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ.”
Căn cứ quy định trên, pháp luật về thuế GTGT và pháp luật về hóa đơn đã có quy định cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm trong khấu trừ, hoàn thuế, các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực hóa đơn, chứng từ và điều kiện khấu trừ thuế.
Cục Thuế trả lời để Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam được biết./.
|
TL. CỤC TRƯỞNG |